Cho đến thời điểm hiện tại, ký sinh trùng Perkinsus đã gây hại đến hàng loạt các loại nhuyễn thể khác nhau trên toàn thế giới. Đặc biệt, ở Việt Nam đã nhiều lần phát hiện bệnh do virus này gây ra ở ngao và nghêu khiến cho chúng chết hàng loạt gây ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế cũng như làm giảm lượng cung trên thị trường. Chính vì thế, người nuôi cần đặc biệt lưu ý phát hiện bệnh một cách sớm nhất và cũng luôn phải chuẩn bị các kiến thức để phòng bệnh một cách hiệu quả. Cùng chúng tôi tìm hiểu ngay về những phương pháp phòng bệnh do Perkinsus trong bài dưới đây.
Mục Lục
Các tác nhân gây bệnh do Perkinsus ở ngao và nghêu
Tác nhân gây bệnh cho các nhuyễn thể hai mảnh vỏ chủ yếu là do nhóm ký sinh trùng đơn bào nội ký sinh Perkinsus sp. Trong đó, hai loài hay gây bệnh là Perkinsus marinus và Perkinsus olseni. Đây là bệnh được Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) đưa vào danh sách các bệnh bắt buộc phải khai báo và kiểm dịch trên động vật nhuyễn thể. Perkinsus marinus là ký sinh trùng đầu tiên được phát hiện trên nhuyễn thể nuôi.
Ký sinh trùng Perkinsus sp. có thể biến thái từ giai đoạn thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ trong khoảng nhiệt độ nước 20 – 35oC. Trong đó, nhiệt độ 30 – 35oC được xem là tối ưu cho quá trình biến thái từ thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ vì thời gian biến thái xảy ra nhanh nhất (sau một ngày ủ).
Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, đây là một loài rộng muối vì bào tử nghỉ được phát hiện ở tất cả các nghiệm thức độ mặn khác nhau, kể cả ở mức 0‰. Tuy nhiên, quá trình hình thành bào tử nghỉ diễn ra nhanh hơn ở mức độ mặn >15‰ (xuất hiện bào tử nghỉ trong 1, 2 ngày đầu ủ).
Kiểm tra bệnh tích
Kiểm tra bệnh tích thấy: Nhuyễn thể hai mảnh vỏ gầy rạc, mô chảy nước, co màng áo, tuyến tiêu hóa nhợt màu; Đôi khi có tổn thương tạo thành áp xe ở tuyến sinh dục.
Sự tăng sinh của Perkinsus sp. gây ra phá vỡ các mô liên kết và biểu mô, trên một số vật chủ có tạo thành áp xe ngẫu nhiên, các mụn mủ đường kính cỡ 8 mm; Bào tử Perkinsus sp. xuất hiện từng đám trên màng áo, mang, mô liên kết tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục biểu hiện là những nốt sần màu nâu trắng hoặc những cái nang trên mặt của màng áo, mang, chân, ruột tuyến tiêu hóa, thận, tuyến sinh dục.
Những triệu chứng thường thấy ở bệnh do Perkinsus
Biểu hiện chủ yếu của bệnh là nhuyễn thể hai mảnh vỏ sinh trưởng chậm; Tuyến sinh dục chậm phát triển, giảm sức sinh sản và làm chậm chu kỳ sinh sản; vật nuôi nổi lên cát, mở vỏ và chết hàng loạt. Bệnh xảy ra ở đối tượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ như hàu, vẹm, nghêu, trai ngọc, trai tai tượng, bào ngư…
Bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập trung vào mùa hè và đầu mùa thu khi nhiệt độ tăng cao trên 15oC. Sau đó giảm dần vào mùa đông và đầu mùa xuân khi nhiệt độ từ 9oC đến 10oC. Vì vậy tỷ lệ nhiễm bệnh và tỷ lệ chết cao nhất thường xảy ra vào đầu mùa thu; Perkinsus sp. phát triển mạnh ở độ mặn 25‰ và không chịu được độ mặn thấp hơn 15‰.
Perkinsus thường phân bố ở đâu?
Perkinsus sp. thường ký sinh trên mang, màng áo. Tế bào biểu mô ruột, các tổ chức mô liên kết. Của tuyến tiêu hóa và tuyến sinh dục. Của động vật nhuyễn thể. Perkinsus sp. có thể tồn tại dai dẳng. Suốt vòng đời vật chủ. Trên thế giới, loại tác nhân này đã được. Nghiên cứu trên nhiều đối tượng nhuyễn thể hai mảnh như hàu. Vẹm, trai, điệp, ngao và gần đây là trên nghêu lụa.
Ở Việt Nam, Ngô Thị Thu Thảo (2008) đã phát hiện ký sinh. Trùng Perkinsus sp. trên nghêu lụa (Paphia undulata) ở vùng biển Kiên Giang và Bà Rịa – Vũng Tàu. Năm 2007, Perkinsus olseni cũng đã được phát hiện. Trên trai tai tượng (Tridacna crocea) của Việt Nam. Xuất khẩu sang Mỹ để làm cảnh (Sheppard và Phillips, 2008).
Các báo cáo cho thấy, Perkinsus đã gây ra tỷ lệ chết. Cao lên tới 95% và hàng loạt cho nhiều loại. Nhuyễn thể có giá trị trên toàn thế giới. Villalba và ctv (2004) cho biết, Perkinsus sp. gây hoại tử mô. Giảm tăng trưởng, giảm khả năng sinh sản, giảm sự tích trữ năng lượng. Của mô vật chủ và gây ra tỷ lệ chết cao cho vật chủ của nó.
Cơ chế lây truyền Perkinsus sp. xảy ra trực tiếp. Giữa động vật thân mềm mà không cần vật chủ trung gian. Giai đoạn lây nhiễm là lúc bào tử động. Có 2 roi chuyển sang giai đoạn cơ thể dinh dưỡng sau khi xâm nhập. Vào các mô của vật chủ; nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Có tỷ lệ nhiễm bệnh cao, với tỷ lệ chết lên đến 95%. Khi điều kiện môi trường bất lợi đối với vật chủ.
Phương pháp phòng bệnh
Theo khuyến cáo của Bộ NN&PTNT, để phòng bệnh do ký sinh trùng Perkinsus sp. gây ra, người nuôi cần thực hiện các biện pháp sau:
- Căn cứ vào kết quả quan trắc môi trường và thời tiết, người nuôi tuyệt đối không nên thả giống vào thời điểm thời tiết không thuận lợi;
- Duy trì mật độ thả thích hợp 180 – 200 con/m2, cỡ giống nuôi 400 – 600 con/kg; dưới 250 con/m2 đối với cỡ giống nuôi 500 – 800 con/kg và 250 – 300 con/m2. Đối với cỡ giống 800 – 2.000 con/kg;
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra các yếu tố môi trường nước. Như: nhiệt độ, độ mặn… ở bãi ngao để khuyến cáo. Cảnh báo cho để khuyến cáo cho người nuôi;
- Trong trường hợp, ngao (nghêu) đạt kích cỡ thu hoạch. Cần khẩn trương thu hoạch tránh thiệt hại xảy ra. Đối với ngao (nghêu) chưa đạt kích cỡ thu hoạch. Cần chủ động san thưa mật độ không để mật độ quá dày;
- Nếu phát hiện ngao (nghêu) chết, lập tức thu gom. Xử lý để tránh lây lan sang các cá thể còn sống, có biện pháp khai thông các vùng. Đọng nước để tránh hiện tượng bị đọng nước cục bộ. Tránh nhiệt tăng độ tăng cao vào buổi trưa.
- Lựa chọn con giống khỏe mạnh, không nhiễm bệnh. Lựa chọn con giống tại cở có kiểm định. Nguồn gốc rõ ràng, giấy tờ đảm bảo.
- Thường xuyên kiểm tra yếu tố môi trường như độ mặn, độ Ph. Nếu có dấu hiệu bất thường cần tiến hành điều chỉnh ngay lập tức để tránh tu hài bị bệnh.
- Vệ sinh dụng cụ nuôi định kỳ 2-3 lần/tháng vào các ngày thủy triều thấp nhất là nuôi kiểu nuôi cọc.