Bệnh nấm diều ở chim bồ câu được biết đến không phải là một bệnh dịch dễ lây lan, thế nhưng nó cũng gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới nhiều trang trại nuôi bồ câu hiện nay trong nước và cả thế giới. Khi mắc bệnh nấm, sức khỏe của bồ câu từ đó cũng bị giảm sút, cơ thể yếu ớt, chán ăn, chấm lớn và gây ảnh hưởng đến hiệu suất kinh tế của người nuôi. Vì thế bạn luôn cần trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cơ bản để có thể nuôi bồ câu một cách hiệu quả tốt nhất. Cùng chúng tôi tìm hiểu phương pháp phòng chống bệnh nấm diều ngay trong bài dưới đây.
Mục Lục
Những tác nhân gây bệnh nấm diều
Bệnh nấm diều ở bồ câu mặc dù không gây ra tỷ lệ chết cao nhưng lại để lại những hệ quả dù vật nuôi đó đã được điều trị khỏi như: Khả năng hấp thu kém, tốc độ tăng trọng giảm, năng suất chăn nuôi giảm, ống tiêu hóa tổn thương, là điều kiện cho các mầm bệnh khác xâm nhập…
Bệnh do một loại nấm có tên gọi Candidia albicans gây ra. Đây là một loại nấm men sống hoại sinh thường xuyên trên niêm mạc đường tiêu hóa và gây bệnh có tính chất cơ hội khi đáp ứng miễn dịch cơ thể bị suy giảm.
Bệnh này hay xuất hiện ở bồ câu 1 – 2 tháng tuổi. Nguyên nhân mắc bệnh có thể là do thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh, hệ thống dụng cụ đựng nước và nước uống không được vệ sinh, bị nhiễm nấm hoặc dùng kháng sinh (loại phổ rộng như cyclines, phenicol, penicilline bán tổng hợp A).
Trộn thức ăn hay nước uống kéo dài làm cho nấm phát triển ngay trong đường tiêu hóa. Dùng các steroids dài hạn cũng là cơ hội cho nấm phát triển; kế phát từ một số bệnh đường tiêu hóa; do thức ăn bị nhiễm nấm; thiếu Vitamin A; suy dinh dưỡng; stress trong khi vận chuyển hoặc do môi trường.

Các triệu chứng thường gặp khi bị nấm diều
Chim bồ câu càng nhỏ tuổi (0 – 4 tuần) tỷ lệ bệnh càng cao và dễ thấy dấu hiệu bệnh lý. Với những triệu chứng đặc trưng: Đầu tiên, mỏ chim xuất hiện những lớp vảy da màu vàng nhạt, lớp vảy này có thể bóc tách dễ dàng và không bị chảy máu; diều cứng, không tiêu, có biểu hiện hen khẹc.
Tiếp đó, tại ngã tư hầu họng và diều chim có những mụn loéát ngày càng ăn sâu xuống. Chim ăn ít, gầy và bị tiêu chảy, thỉnh thoảng còn nôn thức ăn lẫn với chất nhầy có mùi hôi. Kèm theo tiêu chảy phân sống; chim non bị bệnh sẽ có triệu chứng nặng hơn con trưởng thành và chậm mọc lông; chậm lớn, tỷ lệ chết cao.
Mổ khám thấy có các bệnh tích ở vật bệnh gồm:
• Niêm mạc miệng và thực quản đôi khi cũng loét.
• Niêm mạc ở diều dày lên với những mụn hơi trắng. Đôi khi có màng giả ở diều. Trong diều chứa nhiều nước nhầy hôi chua.
• Dạ dày tuyến sưng hoặc xuất huyết niêm mạc. Trên niêm mạc có dịch viêm nhầy và các khối mụn trắng.
• Niêm mạc ruột non cũng bị viêm cata với nhiều dịch nhầy.
Chẩn đoán bệnh nấm diều ở bồ câu
Bệnh do nấm Candidia albicans gây ra. Mẫn cảm nhất là bồ câu 1 – 2 tháng tuổi. Bệnh có thể lây qua dụng cụ, thức ăn, nước uống không đảm bảo vệ sinh. Cũng có thể do dùng kháng sinh phổ rộng dài ngày. Đầu tiên xuất hiện những lớp vảy da màu vàng nhạt ở trong mỏ, có thể bóc tách dễ dàng, không chảy máu. Sau đó tạo những mụn loét ăn sâu xuống ngã tư hầu họng và diều.

Chẩn đoán dựa trên bệnh tích khi mổ khám. Tuy nhiên khi chưa đủ điều kiện kết luận bệnh thì nên phân lập và giám định đặc tính của nấm bệnh. Cần phân biệt với bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB): Chim bồ câu cũng nôn nước ra liên tục nhưng không có mùi hôi thối; ngoài nôn nước ra chim bồ câu còn khó thở khò khè. Còn bệnh do nấm Candida thì không thở khó.
Phòng bệnh nấm diều hiệu quả
Thực hiện phòng bệnh theo nguyên tắc đảm bảo an toàn sinh học trong chăn nuôi. Nên thực hiện kiên trì và toàn diện, đặc biệt cần đảm bảo cách ly giữa các đàn nuôi (giữa các đàn, các giống, các lứa tuổi) và với môi trường bên ngoài.
Vệ sinh môi trường chăn nuôi sạch sẽ, khử trùng định kỳ chuồng nuôi và môi trường xung quanh. Dọn dẹp chuồng trại, tiêu hủy chất độn chuồng, sát trùng chuồng trại ít nhất 2 lần (với lần 1 dùng CuSO4 nồng độ 0,5% phun toàn bộ chuồng trại; lần 2 dùng Iodine 20 ml/lít nước phun toàn bộ chuồng trại).
Sau khi phát hiện tình trạng bệnh, cần nhanh chóng vệ sinh thật sạch chuồng trại, khay ăn, uống của chim. Tiêu hủy hết các vật mau hỏng, ẩm, mốc trong chuồng. Cần phun sát trùng chuồng nuôi và cả khu vực chăn nuôi bằng dung dịch chứa Iodine, CuSO4 1% hoặc formol 2,5%.
Loại bỏ tất cả những thức ăn bị nghi ngờ nhiễm nấm như ngô, khô dầu, đỗ tương. Cho bồ câu ăn cám gà đẻ (cho bồ câu ăn với lượng thức ăn bằng 1/10 trọng lượng của chúng). Nâng cao sức đề kháng cơ thể vật nuôi bằng cách bổ sung men tiêu hóa, vitamin, khoáng chất.
Các phương pháp trị bệnh

Dùng thuốc kháng nấm (chọn dùng một trong các hoạt chất sau):
Nystatin: Dùng dung dịch hay huyễn dịch 100.000 IU/ml; pha vào nước uống hay trộn vào thức ăn theo liều 1,5 ml/kg trọng lượng; dùng liên tục 7 ngày
Ketoconazole: Dùng theo liều 10 – 20 mg/kg trọng lượng pha vào nước uống hay trộn vào thức ăn, dùng liên tục 10 – 15 ngày
Nên cho đàn uống cùng với một trong các loại kháng sinh như: Pharamox G, Pharmequin, Enroflox 5%, Orain-pharm… liên tục 5 ngày để diệt vi khuẩn bội nhiễm.
Cho bồ câu ăn/uống Phartigum B 2 g/10 kg trọng lượng/ngày. Bệnh nấm diều hoặc 2 g/lít nước uống để giảm đau, tăng lực. Có thể hòa tan thuốc theo liều lượng cho phép. Trộn đều với cám để bồ câu mẹ vừa mớm. Được cả thức ăn và thuốc cho bồ câu con.